Jump to content

CHÂN DUNG SÁNG TỔ NGUYỄN LỘC


Hong Giang

lượt xem

        Dáng người dong dỏng cao, quắc thước. Vầng trán rộng, gò má cao, khuôn cằm nở. Nét mặt trầm mặc, cương nghị với ánh mắt sáng của lối nhìn thẳng, sắc và sâu thẳm một niềm tin mãnh liệt. Giọng nói uy nghiêm, trầm ấm cùng với nụ cười cởi mở, thân mật của tấm lòng khoan dung, độ lượng. Ðó là những nét độc đáo của một nhân dáng siêu phàm - một bậc thầy tôn quý, đấng sinh thành của một Môn Phái Võ Ðạo, với sứ mệnh duy trì, bảo vệ và phát triển truyền thống võ học hào hùng, bất khuất của dân tộc Việt Nam. Một người tiên phong đầy tính khai phá và sáng tạo trong cuộc chinh phục vĩ đại nhất của thế kỷ: Chiến thắng sự yếu kém của thể chất và tinh thần con người trước mọi hoàn cảnh. Nhân cách siêu phàm đó chính là hình ảnh bất diệt của Cố Võ Sư NGUYỄN LỘC - vị Sáng Tổ của môn phái võ thuật VOVINAM - VIỆT VÕ ÐẠO.

Sang-to-NGUYEN-LOC-1912-1960.thumb.webp.d98a0f3ba9942cc51db8f549da394d86.webp

        Võ sư Sáng tổ Nguyễn Lộc sinh ngày 8 tháng 4 năm Nhâm Tý (24/05/1912) tại làng Hữu Bằng, huyện Thạch Thất, tỉnh Sơn Tây (nay là Hà Nội), ông là trưởng nam của cụ ông Nguyễn Đình Xuyến và cụ bà Nguyễn Thị Hòa. Ông lớn lên trong thảm cảnh mất nước, giữa lúc các phong trào cách mạng và các đảng phái hoạt động lan tràn trên khắp đất nước. Một bên, các nhà chí sĩ cách mạng âm thầm vận động, cổ súy tinh thần yêu nước trong quốc dân để thúc đẩy nhân dân vào con đường cách mạng giải phóng dân tộc. Một bên, bọn thực dân thống trị dùng mọi thủ đoạn ru ngủ quần chúng, đem lợi danh ra mua chuộc, ngụy trang bằng cái vỏ tự do, phóng khoáng của văn hoá Âu Tây, để huyễn hoặc, ru ngủ các lớp thanh thiếu niên, biến họ thành đạo quân tiền phong của phong trào xa hoa, phóng đãng và trụy lạc, khiến các nhà ái quốc khó có đất mà gieo mầm cách mạng, chống đối chính quyền thống trị.

        Giác ngộ, vượt ra khỏi hai xu hướng trên, ông phản đối và lên án gắt gao dã tâm của thực dân thống trị, nhưng ông cũng không vội tán thành chủ trương sắt máu của các cuộc nổi dậy theo xu hướng bạo lực. Không phủ nhận nguyên lý cách mạng, song ông quan niệm muốn đưa cuộc Cách mạng Dân Tộc đến chỗ thành tựu, cần gây dựng cho các tầng lớp thanh thiếu niên có được một ý thức cách mạng, một tinh thần quật cường, một nghị lực quả cảm, song song với đó là một thân thể khỏe mạnh, đanh thép, rắn chắc, có sức lực mạnh mẽ dẻo dai, có đầy đủ khả năng tự vệ.

        Làm cách mạng để tiến tới thành công là một điều rất khó, song bảo vệ thành quả cách mạng để bước sang giai đoạn kiến thiết lại là điều khó hơn. Võ sư Sáng tổ Nguyễn Lộc muốn hun đúc, rèn giũa để cống hiến cho đất nước những người con ưu tú có đầy đủ năng lực, trí tuệ, sức mạnh và nhất là ý chí tất thắng. Với quan niệm đó, ông chú trọng hướng dẫn thanh niên về mặt Tâm Thân Cách Mạng chứ không hướng dẫn họ hoạt động như cách các đoàn thể cách mạng khác đề xướng.

        Mang hoài bão lớn lao ấy, nên ngoài việc trau dồi học vấn và đạo đức, ông còn nỗ lực sưu tầm, học hỏi, luyện tập hầu hết các môn võ thuật và ông nhận thấy, môn võ nào cũng có những ưu điểm riêng của nó. Song nếu chỉ đem phổ biến một phương pháp nào thôi, đối với thể trạng mảnh khảnh, nhỏ bé của người Việt thì khó mà đạt được kết quả như ý muốn. Hơn nữa, trong mọi cuộc chiến đấu, vấn đề tinh thần và danh dự vẫn là hai yếu tố quan trọng để quyết định sự thành bại. Bởi vậy, ngoài phần võ thuật và tinh thần võ đạo ông còn muốn ràng buộc các môn đệ sau này của ông vào danh dự của Tổ quốc, nghĩa là thanh niên Việt Nam phải có phương pháp tự vệ mang danh dân tộc Việt Nam, tiêu biểu cho tinh thần tự chủ bất khuất của tiền nhân để khi chiến đấu sẽ phát huy được cái hùng khí, bất khuất… quyết đem vinh quang về cho Tổ Quốc, cho môn phái.

        Một môn sinh Vovinam với tư cách cá nhân có thể rất hiền lành, nhã nhặn, song khi bắt buộc mang danh nghĩa dân tộc và môn phái để chiến đấu với đối thủ thì chỉ có thể hoặc chiến thắng vinh quang, hoặc chết vẻ vang chứ không chịu làm nhục Quốc Thể và tổn thương danh dự môn phái. Với luận cứ đó, ông đã lấy môn vật và võ cổ truyền Việt Nam làm nòng cốt, khai thác mọi tinh hoa võ thuật đã có trên thế giới để sáng tạo thành môn phái riêng, đặt tên là VOVINAM. Cuộc nghiên cứu hoàn tất. Ông đã bí mật đem Vovinam ra huấn luyện cho một số thân hữu cùng lứa tuổi vào năm 1938.

        Ngót một năm sau, mùa thu năm 1939, ông đem lớp võ sinh đầu tiên công khai ra mắt dân chúng tại nhà hát lớn Hà Nội. Cuộc biểu diễn thành công rực rỡ, nên bác sĩ Ðặng Vũ Hỷ là Trưởng hội Thân Hữu Thể Dục Thể Thao đương thời mời ông Nguyễn Lộc cộng tác, tổ chức những lớp dạy võ công khai cho thanh niên Hà Nội. Nhận lời mời, vị sáng tổ Vovinam khai giảng lớp võ công khai đầu tiên vào mùa xuân 1940 tại trường sư phạm (Ecole Normal) Hà Nội. Sau đó nhiều lớp võ liên tiếp được mở ra. Môn sinh Vovinam thới đó rất tiến bộ nhờ phương pháp huấn luyện tinh vi và khoa học, nhờ tinh thần đạo đức dân tộc sáng chói của môn phái và nhất là nhờ ảnh hưởng trực tiếp cái gương uy vũ bất năng khuất của Võ sư Nguyễn Lộc.

        Mùa thu 1940, trong buổi biểu diễn võ thuật do hội Thân Hữu Thể dục Thể Thao tổ chức, có một viên chức Pháp là Ducoroy chủ toạ. Vì Ducoroy đại diện cho thực dân thống trị ngồi trên khán đài nên ông Nguyễn Lộc không cho môn sinh nghiêm lễ ngoài sân như thường lệ mà lại dẫn vào hậu trường nghiêng mình làm lễ trước bàn thờ Tổ quốc. Rồi đến giữa cuộc biểu diễn, vị Hội trưởng mời ông Nguyễn Lộc lên khán đài để Ducoroy gắn tặng huy chương. Nhưng khi rời khán đài ông điềm nhiên gỡ tấm huy chương bỏ vào túi, tiếp tục điều khiển cuộc biểu diễn. Tất cả các hành động kể trên không những làm bẽ mặt chức quyền bảo hộ, mà còn gây xúc động tâm lý sâu xa về ý thức Quốc Gia trong giới thanh niên, nhất là các môn sinh Vovinam.

        Từ đó Vovinam luôn châm ngòi cho các phong trào công khai chống Pháp trong quảng đại quần chúng. Môn phái Vovinam không phải là một đoàn thể chính trị, nên không hoạt động chính trị. Tuy nhiên môn phái Vovinam không xâm phạm tới quyền công dân của các môn sinh nên cũng không ngăn cấm các môn sinh làm chính trị với tư cách công dân của họ.

        Mặc dầu mục đích của môn phái Vovinam nhằm xây dựng con người trên căn bản võ thuật và tinh thần võ đạo chứ không phải hoạt động chính trị và công tác xã hội. Nhưng khi vận mệnh đất nước đòi hỏi, môn phái Vovinam sẵn sàng hợp sức với chính quyền hoặc các đoàn thể ái quốc để thực hiện công cuộc cứu quốc và cứu tế xã hội, với tinh thần vị tha vô diều kiện. Tuy nhiên, sự chung sức hợp tác này (nếu có) không có nghĩa rằng Môn phái Vovinam đã phục vụ cho cá nhân hay tập thể nào, mà đó chỉ là phục vụ cho dân tộc trong công cuộc ích quốc lợi dân, rồi sau đó lại trở về với mục đích quảng bá võ thuật và tinh thần võ đạo của môn phái Vovinam.

        Chính vì quan điểm trên, võ sư Nguyễn Lộc đã nhận lời cộng tác với chính phủ Trần Trọng Kim, cũng như không ngăn cấm các môn đệ tham gia hoạt động chính trị ái quốc với tư cách công dân. Vovinam đã cộng tác với các đoàn thể ái quốc tổ chức các ngày quốc lễ, như: Giổ tổ Hùng Vương, kỷ niệm Hai Bà Trưng, các công cuộc cứu tế xã hội trong chương trình cứu trợ nạn đói, triệt hạ tượng đồng tại các vườn hoa Paul Bert, Canh Nông... tại Hà Nội. đồng thời rất nhiều lớp võ tự vệ được mở ra ở trường Sư Phạm, Trường Bưởi, Việt Nam Học Xá, sân tập Ấu Trĩ Viên, Bãi Septo, Bãi Nhà Ðèn... Ngoài ra, hai đoàn đặc biệt được thành lập, đó là: Ðoàn “Võ sĩ cảm tử” gồm các thanh niên võ sinh có sức vóc vạm vỡ hăng say hoạt động; và đoàn “Anh hùng ngày mai” gồm các võ sinh thiếu niên dưới 18 tuổi. Cùng lúc đó, một lớp võ đại chúng chuyên luyện cách sử dụng gậy và mã tấu được mở ra tại Việt Nam Học Xá, thu hút hàng chục ngàn học viên để hun đúc lòng tự tôn và tinh thần võ đạo trong quảng đại quần chúng.

        Sự hâm mộ Vovinam trong quần chúng thời đó biểu đạt bằng khẩu hiệu: “Không học Vovinam không phải là người yêu nước”. Tinh thần ái quốc và tiềm lực dân tộc được khởi động và dần bộc lộ. Tháng 4/1945, từng đợt võ sư được tung đi khắp toàn quốc để quảng bá môn phái Vovinam và giúp cho các thanh thiếu niên có một lợi khí chống xâm lăng hữu hiệu. Ngày 19/12/1946 cuộc kháng chiến toàn quốc bùng nổ, môn đồ Vovinam đã tham gia cuộc kháng chiến của dân tộc chống thực dân Pháp với lòng hăng say, nhiệt huyết của người công dân yêu nước. Do đó, rất nhiều môn đồ Vovinam đã oanh liệt đền nợ nước và một số người đã trở thành những cấp chỉ huy nổi tiếng trong những ngày đầu kháng chiến của dân tộc.

        Trên đường tản cư, võ sư Nguyễn Lộc đã cùng môn đệ mở ra những lớp huấn luyện cho mọi tầng lớp quân - dân - chính, như: Lớp võ cho thanh niên toàn huyện Thạch Thất, lớp sĩ quan trường quân chính Trần Quốc Tuấn, các lớp dân quân, du kích, lớp võ cho Tiểu đội trưởng và Trung đội trưởng ở Chuế Lưu, ở trại Thanh Hương, Ðan Hà, Ðan Phú... Sau đó, ông cùng các môn đệ trở lại Hà Nội, tái mở những lớp võ cho thanh niên để gây dựng lại phong trào học Vovinam. Kiến thiết lại đời sống xã hội, khơi lại lòng tin yêu của thanh niên trong việc tu dưỡng tinh thần, rèn luyện thể xác.

        Năm 1951, cộng tác với một số nhân sĩ, ông thành lập Việt Nam Võ Sĩ Ðoàn và gây lại phong trào học Vovinam khá sôi nổi bằng những lớp võ đại chúng tại sân trường Hàng Than, Hà Nội. Tháng 8 năm 1954, võ sư Nguyễn Lộc và gia đình di cư vào Sài Gòn cùng một số môn đệ thân tín. Trong số đó, có năm người sau này lên hàng võ sư là: Lê Sáng, Phan Dương Bình, Nguyễn Dần, Trần Đức Hợp và Hà Trọng Thịnh. Sau đó ông tổ chức một lớp võ dành riêng cho các môn đệ từ Hà Nội vào, một số sau này trở thành võ sư, như: Bùi Thiện Nghĩa, Nguyễn Văn Thông, Lê Trọng Hiệp, Lê Văn Phúc…

          Võ đường đầu tiên được khai giảng tại Miền Nam Việt Nam, tọa lạc tại số 51 đường Frères Louis, nơi này cũng là nơi võ sư Trần Huy Phong đến tập huấn với võ sư Nguyễn Lộc. Sau đó được đổi về đường Aviateur Garot, hay còn gọi là võ đường Thủ Khoa Huân. Võ đường này có thể nói là võ đường quan trọng nhất của võ sư Nguyễn Lộc. Môn sinh lên tới hàng trăm người, đại đa số các võ sư danh tiếng sau này đều xuất thân từ võ đường này.

Chỉ trong 6 năm (1954-1960) tại miền Nam, võ sư Nguyễn Lộc đã gây dựng được một nền văn hóa võ thuật quý giá và đã đào tạo được một thế hệ thanh niên ưu tú, tràn đầy lý tưởng, đầy đủ khả năng để có thể thay ông tiếp tục mở rộng con đường mà ông đã vạch ra. Đó là xây dựng một đại phái Vovinam-Việt Võ Đạo cho dân tộc và cho nhân loại. Trong những môn sinh được đào tạo trong giai đoạn này gồm có: Trần Huy Phong, Phạm Hữu Độ, Nguyễn Văn Thư, Ngô Hữu Liễn, Trần Thế Phượng, Nguyễn Văn Nuôi (tự Phúc), Nguyễn Gia Tuấn… Sau này, các lớp tại đường Thủ Khoa Huân được dời về đường Nguyễn Khắc Nhu (Quận 1). Sau một thời gian, ông tạm ngưng dạy võ, về trú ngụ tại Building Everest (đường Đinh Công Tráng, gần Ngã Sáu Sài Gòn), chú tâm nghiên cứu võ công và xây dựng một hệ thống triết học cho Vovinam. Theo đó, ông cho phép các môn đệ mở võ đường với tính cách độc lập, còn ông chỉ đứng vai trò cố vấn.

          Võ sư Nguyễn Lộc là người rất nghiêm nghị, nhưng cũng rất cởi mở và phóng khoáng. Ông chủ trương cải tiến văn hoá, sống văn minh, từ chối mọi thói câu nệ lễ nghi và quan cách. Chính vì thế ông yêu cầu các môn đệ kêu ông bằng anh, hành xử thẳng thắn, diễn đạt dõng dạc, xử sự phóng khoáng, tinh thần độ lượng, thích phiêu lưu, cần mẫn học hành… và lấy sự hùng dũng của con nhà võ làm căn bản. Ông không muốn các học trò của mình phải khúm núm quỳ lạy, vâng dạ, xưng con và thưa thầy như đa số các môn phái võ học thời bấy giờ. Ông quan niệm rằng, ông là người khai sáng Vovinam là để xây dựng một thế hệ thanh niên bất khuất, yêu nước và hữu ích cho xã hội, nên ông coi các môn đệ như là các chí hữu của mình. Tinh thần tân tiến và khoa học này đã khiến Vovinam trở thành một bộ môn võ thuật, thể dục và thể thao quần chúng, mở rộng đến tất cả các thanh thiếu niên thuộc mọi thành phần. Vovinam không giấu giếm, không huyền bí, không chọn lọc hoặc dành riêng cho một thiểu số như đa phần các võ phái ở Việt Nam vào thời ấy. Nhờ thế Vovinam-Việt Võ Đạo đã không bị tụt hậu mà ngược lại đã trở thành một môn phái có bề thế đáng kể như ngày nay.

          Về phương diện tổ chức, ông không câu nệ trên dưới, không tổ chức bộ máy quản lý nặng nề. Ông ưa chuộng tính đơn giản và dành ưu tiên cho các sinh hoạt có hiệu quả, hầu dễ đạt mục đích. Chính vì thế trong suốt thời điểm xây dựng môn phái từ năm 1938 đến năm 1960, Vovinam không có chức vụ chưởng môn. Riêng ông chỉ nhận là võ sư sáng tạo Vovinam mà thôi. Mặc dù Vovinam là công trình của cá nhân ông và do ông sáng lập, nhưng ông quan niệm rằng, công trình này phải được hiến dâng cho dân tộc và nhân loại, theo đúng với lý tưởng mà ông đã theo đuổi. Chính vì thế, theo tâm nguyện của ông, môn phái Vovinam không được coi như là một tập hợp của riêng ông hoặc của gia đình ông, mà phải là một gia tài của nền văn hoá võ thuật Việt Nam. Một tập thể mà tất cả các võ sư và các môn sinh đều có quyền theo đuổi và đóng góp như trong một đại gia đình.

          Riêng về lĩnh vực giảng huấn, ông rất kỹ lưỡng và chăm sóc từng môn sinh tùy theo năng khiếu kỹ thuật cũng như trình độ văn hoá. Trong việc huấn luyện võ thuật, chỉ có ông mới được truyền dạy các đòn thế mới, các phụ tá chỉ có bổn phận ôn luyện mỗi khi ông vắng mặt mà thôi. Các môn đệ có trình độ văn hoá, có khả năng lãnh đạo thì được ông hướng dẫn sinh hoạt riêng về các lĩnh vực như: xã hội, chính trị, lãnh đạo, tâm lý… ngoài ra ông thường khuyến khích các môn sinh tham gia các sinh hoạt đoàn thể ngoài giờ học võ. Chính nhờ thế mà đa số các võ sư do ông đào tạo, đều là những võ sư kiện toàn cả văn lẫn võ và có vị thế trong xã hội.

          Trong hai năm: 1958, 1959, khi võ sư Nguyễn Lộc bắt đầu mệt mỏi và dời về nhà người em của ông là Nguyễn Hải, dưỡng bệnh tại Building Everest. Ông cho phép các môn đệ như: Lê Sáng, Trần Huy Phong, Nguyễn Gia Tuấn, Nguyễn Văn Nuôi, Nguyễn Văn Thư… thành lập Trung tâm Huấn luyện Vovinam Trung Ương, đặt trụ sở tại đại lộ Trần Hưng Đạo (Quận 5) và các chi nhánh tại đường Trần Khánh Dư (Tân Định), khu vực sau chùa Ấn Quang (Quận 10), đường Sư Vạn Hạnh và đường Phan Đình Phùng. Vào thời điểm đó, võ sư Lê Sáng là người có tuổi tác và có thâm niên nhất, nên được gọi là võ sư Trưởng, tức có nghĩa là võ sư đàn anh.

          Võ sư Nguyễn Lộc từ giã cõi trần ngày 30 tháng 04 năm 1960 (tức 04 tháng 04 năm Canh Tý) tại Sài Gòn và được an táng tại nghĩa trang Mạc Đĩnh Chi. Ông để lại 9 người con, gồm 3 trai và 6 gái. Tuy chỉ hưởng dương 48 tuổi, nhưng ông đã để lại một sự nghiệp phi thường. Các truyền nhân của ông đã thực hiện được ý nguyện và mục đích mà ông hằng ấp ủ, đó là xây dựng môn phái Vovinam thành một đại phái, đi vào quảng đại quần chúng với triết lý sống cao cả cho con người.

          Ngày nay Vovinam-Việt Võ Đạo đã trở thành một trong những môn võ học tiêu biểu cho văn hóa Việt Nam, nó đã được phổ biến ra khắp thế giới, không phân biệt màu da, chủng tộc; không phân biệt biên giới, quốc gia; cũng như không phân biệt tôn giáo, chính kiến. Các môn đệ và truyền nhân của công cùng với các thế hệ võ sư hiện tại đang tiếp tục cuộc hành trình mà ông đã bắt đầu, đưa Vovinam thành cách sống của người Việt Nam và của những người yêu mến văn hoá Việt Nam trên toàn thế giới.

  • Like 1

0 Comments


Bình luận được đề xuất

Không có bình luận nào để hiển thị.

Guest
Thêm bình luận...

×   Pasted as rich text.   Restore formatting

  Only 75 emoji are allowed.

×   Your link has been automatically embedded.   Display as a link instead

×   Your previous content has been restored.   Clear editor

×   You cannot paste images directly. Upload or insert images from URL.

×
×
  • Create New...